Tên di sản : Đền làng Hiếu Hiền (Thành hoàng ông Chưởng)
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 3250/QĐ- UBND
Giới thiệu
Đền thờ làng Hiếu Hiền trước đây được xây dựng trên một khu đất hình kim cục (hình vuông) khá rộng, kiến trúc không gian đẹp, có nhiều vật liệu kiến trúc bằng gỗ, đá. Trải qua năm tháng thời gian, với bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử, đặc biệt là trong những năm giặc Mỹ leo thang đánh phá xâm lược miền Bắc, do vị trí của làng nằm ngay cạnh sát Phà Ghép nơi có đường quốc lộ 1A đi qua, nằm trong vùng trọng điểm bắn phá của không lực Hoa Kỳ, vì thế mà làng không tránh khỏi sự tàn phá khốc liệt, nhiều kiến trúc của đền cũng bị hư hại. Ngày nay, đền còn lại một ngôi hậu cung kiến trúc gỗ 3 gian, kết cấu theo chiều dọc, bao gồm hai gian phía trong xây thông với nhau gối chung một vì kèo giữa. Gian phía ngoài được làm rộng hơn về cả chiều dài, chiều rộng tạo thành kiểu kiến trúc nhà hình chữ Đinh (J). Nhà được trùng tu tôn tạo lại vào niên hiệu Bảo Đại thứ 17 (1943). Hai gian phía sau là nơi bài trí long ngai, thân chủ, bát hương và các đồ thờ Thành Hoàng. Gian phía ngoài là nơi đặt hương án thờ hội đồng, hai bên có hai cửa ra vào hậu cung.
Kích thước gian ngoài rộng 4,20m, dài 3m. Hai gian trong hậu cung rộng 2,20m, dài 2,70m. Toàn bộ nền móng khu đền được xây dựng cao hơn mặt sân 0,30m. Bên ngoài phía trên trang trí các biểu tượng hổ phù, hai bên đắp rồng chầu. Dưới biểu tượng hổ phù là một bức đại tự đắp bốn chữ theo kiểu chữ triện, hai bên có hai con phượng hoá.
Nhìn chung, hệ thống kiến trúc gỗ tại đền không đặc sắc về mặt mỹ thuật tạo tác, kết cấu cột kèo được làm giản đơn, chưa hài hoà xứng ngang tầm với chốn linh thiêng thờ cúng Thành Hoàng làng.
Các hiện vật có giá trị về mặt mỹ thuật tạo tác hiện còn tại đền:
Bia "Tự sự điều lệ" khắc niên hiệu Cảnh Hưng. Bia cao 1,30m, rộng 0,90m, dày 0,10m được làm bằng một tấm đá nguyên khối bao gồm 2 mặt: mặt dương khắc nội dung điều lệ dân làng thờ cúng thần, mặt âm khắc hậu tự.
Bia được chia làm 3 phần: đế, thân và mũ bia. Nét đặc biệt ở tấm bia là kiểu dáng và phong cách tạo tác. Ở mặt dương (mặt trước), phần đế của bia tạo 3 cấp lượn hình chóp, ở chính giữa có chạm một bông hoa sen úp xuống, hai bên chạm cánh sen nối tiếp nhau tạo thành lớp sóng. Thân bia được chạm nổi các viên biên xung quanh cao hơn một lớp gờ chỉ so với mặt chữ. Ở hai riềm biên người ta chạm khắc hoạ tiết khung kiểu chân khay, đăng đối hai bên. Bên trong mỗi hình khắc nổi các biểu tượng hoa cúc, cuốn thư, sách,...cách điệu. Đường nét chạm trỗ trong các biểu tượng giản đơn, nét chạm sâu và tinh.
Mũ bia được chia làm 3 lớp. Lớp thứ nhất là vành mũ, hoa văn trang trí là một dây cúc leo. Thân mũ có chạm sâu chìm, được thể hiện 5 khung chạm khắc chìm kiểu chân khay giãn cách đều nhau, phía ngoài chạm hai con chim nổi ở thế đang bay, vành kế bên chạm hình chữ phúc viết kiểu chữ "Triện lệ" xen lẫn các lá hoa cúc. Hình chính giữa chạm hình hai chữ thọ nổi kiểu chữ “Triện" nằm trong hình lục lăng chen lẫn các cánh, lá hoa như đang vươn ra phía ngoài các hình chữ. Phần chóp bia vạt trơn, chính giữa khắc chữ Thọ, chóp trên tạo vát, xung quanh chạy một đường hoa văn kiểu sống dừa.
Mặt âm bố cục hoa văn khác mặt dương. Vành mũ được đẩy xuống chạm ở viền trên, hai bên chạm hai chữ Phúc kiểu chữ Triện, bốn hình còn lại chia gờ khắc tên bia. Vành mũ bia chạm lướt hình hoa cúc cách điệu, giữa vành mũ khắc chữ Thọ nằm trong hình nửa lá đề. Chóp bia chạm cúc hoá vân, nét chạm nổi, bên trong khắc hình hổ phù miệng ngậm linh ấn cách điệu.
Có thể thấy đây là một tấm bia khá đặc biệt về kiểu dáng cũng như phong cách tạo tác mỹ thuật, ít thấy xuất hiện ở Thanh Hoá. Các đường nét hoa văn không cầu kỳ, đường chạm giản đơn, bố cục hài hoà mang đậm yếu tố dân gian. Có lẽ đây là tấm bia phần nào còn mang dư ảnh của bia hai mặt mô phỏng kiểu dáng bia 4 mặt có mũ thời Lê Trung Hưng.
Bia thứ hai là “Hậu tự bia ký”. Bia được làm bằng một tấm đá nguyên khối khắc thời Khải Định. Kích thước cao 1,20m x rộng 0,60m, trán bia tạo hình vòng cung, chạm nổi hai con phượng đang bay lượn trong những đám mây chầu vào nhau. Tư thế phượng bay vút lên cao nhập vào hình mặt trời. Đường nét chạm khắc giản đơn, bố cục hài hoà, vui mắt. Hai viền biên chạm hoa văn hoa cúc leo.
Ngoài ra, tại đền thờ hiện còn lưu giữ được một số các hiện vật bằng gốm, gỗ quý có giá trị về mỹ thuật như: Hai bát hương gốm cổ mang đậm dấu ấn phong cách tạo tác thế kỷ XVII, một long ngai, bài vị, biển bài bằng gỗ có phong cách tạo tác thế kỷ XVIII - XIX.
Các hiện vật ở di tích:
Hương án gỗ: 01
Đài rượu bằng gỗ: 08
Hạc gỗ: 02
Đèn nến gỗ: 04
Ống hương gỗ: 02
Mâm bồng gỗ: 03
Lục bình sứ: 05
Long ngai gỗ: 01
Bài vị: 01
Kiếm gỗ: 02
Mũ ô sa: 01
Áo thờ: 01
Bát hương gốm cổ: 01
Bát biểu: 02
Chó đá: 01
Bệ bia đá: 02
Bia đá: 02
Kiệu bát cống: 01
Hộp đựng sắc: 01
Và nhiều hiện vật có giá trị.